Trang chủ - Bệnh xương khớp - Viêm khớp - Viêm khớp phản ứng có nguy hiểm không? Những biến chứng thường gặp
Viêm khớp phản ứng là bệnh lý viêm khớp diễn ra phổ biến ở những người trong độ tuổi lao động và có liên quan đến tình trạng viêm ở niệu đạo, cơ quan sinh dục, da và niêm mạc,… Vậy viêm khớp phản ứng có nguy hiểm không? Tìm hiểu ngay những biến chứng liên quan đến bệnh lý này và cách phòng ngừa hiệu quả.
Viêm khớp phản ứng (tiếng Anh là Reactive arthritis), hay viêm khớp vô khuẩn, là tình trạng viêm khớp liên quan đến nhiễm trùng ở các cơ quan khác trong cơ thể.
Nguyên nhân chính gây bệnh viêm khớp nhiễm khuẩn được xác định là do các loại vi khuẩn gây nhiễm khuẩn ở đường tiêu hóa (Salmonella, Yersinia, Shigella, Borrelia, Campylobacter,…), vi khuẩn đường tiết niệu và cơ quan sinh dục (Chlamydia, Trachomatis,…), các loại virus (HIV, Rubella, virus viêm gan,…). Tuy nhiên, có đến hơn 20% trường hợp không phát hiện được nguyên nhân gây bệnh.
Viêm khớp phản ứng tuy không phải là bệnh truyền nhiễm nhưng các tác nhân gây bệnh có khả năng lây nhiễm theo nhiều con đường và dẫn đến bệnh lý này. Ngoài ra, nhiều trường hợp cho thấy viêm khớp phản ứng cũng có khả năng di truyền, chẳng hạn như liên quan đến gen HLA-B27 làm nguy cơ mắc bệnh.
Bệnh lý này diễn ra phổ biến ở những người trong độ tuổi từ 20 – 40 và ở mọi giới tính. Tuy nhiên, nam giới có nguy cơ mắc phải bệnh lý này cao hơn và các triệu chứng cũng thường nghiêm trọng hơn so với nữ giới.
Viêm khớp phản ứng diễn ra phổ biến ở nam giới hơn
Người bệnh thường thắc mắc viêm khớp phản ứng có nguy hiểm không? Thông thường, các triệu chứng bệnh có thể được cải thiện sau vài tuần đến vài tháng, hoặc có thể sớm hơn sau quá trình điều trị theo chỉ định của bác sĩ. Tuy nhiên, các triệu chứng viêm khớp phản ứng có thể gây khó chịu, cản trở sinh hoạt của người bệnh.
Người bệnh không điều trị theo đúng chỉ định của bác sĩ hoặc có thói quen sinh hoạt thiếu lành mạnh, gây áp lực đối với xương khớp có thể khiến các triệu chứng trở nên nghiêm trọng hơn, thậm chí dẫn đến mất khả năng vận động khớp.
Nhiều trường hợp bệnh lý có thể tái phát hoặc chuyển sang viêm khớp phản ứng mãn tính, đặc biệt đối với trường hợp mắc bệnh do di truyền thì nguy cơ tái phát lên đến 50%. Theo thống kê, có đến 30 – 50% trường hợp người bệnh bị viêm khớp phản ứng do gen di truyền HLA-B27 biến chứng thành viêm cột sống dính khớp. (1)
Viêm khớp phản ứng có nguy hiểm không và làm thế nào để nhận biết tình trạng này? Người bệnh có thể cảm thấy mệt mỏi, sốt, sụt cân,… ở giai đoạn đầu, theo thời gian các triệu chứng có thể diễn ra ở nhiều cơ quan trong cơ thể như: (2)
Người bệnh viêm khớp phản ứng thường gặp những biểu hiện phổ biến ở khớp như đau nhức, sưng viêm, diễn ra chủ yếu khớp chi dưới như đầu gối, bàn chân, mắt cá chân. Các cơn đau cũng có thể lan ra ở các khu vực như cổ, vai, cột sống, bàn tay, ngón tay,…
Viêm khớp phản ứng cũng dẫn đến các tình trạng viêm gân như viêm gân chân, viêm gân achilles, viêm màng xương ngón…
Nhiều trường hợp viêm khớp ngoại biên có thể tái phát nhiều lần và ảnh hưởng đến khả năng vận động, sinh hoạt của người bệnh.
Các tác nhân gây viêm khớp phản ứng có nguy cơ gây nhiễm khuẩn ở hệ tiêu hóa và dẫn đến những triệu chứng rối loạn tiêu hóa như chán ăn, buồn nôn, nôn mửa, tiêu chảy, phân có máu, đau bụng, ớn lạnh,…
Tình trạng viêm niệu đạo có thể xuất hiện ở cả nam và nữ giới, nhưng có thể nghiêm trọng hơn ở nam giới. Ngoài ra, nam giới có thể gặp phải các tình trạng viêm bàng quang, viêm tuyến tiền liệt,… với một số triệu chứng như tăng tần suất đi tiểu, nóng rát khi tiểu, châm chích, tiểu mủ vô khuẩn,…
Viêm khớp phản ứng có thể liên quan đến các tình trạng viêm kết mạc, viêm giác mạc, loét giác mạc,… khiến người bệnh gặp các triệu chứng như đau rát mắt, đỏ mắt, chảy nước mắt liên tục.
Viêm khớp phản ứng có thể liên quan đến tình trạng viêm ở mắt
Viêm khớp phản ứng nếu không được điều trị kịp thời có khả năng dẫn đến các biến chứng như: loét bề mặt niêm mạc ở lưỡi, miệng, cơ quan sinh dục (dương vật, âm đạo); mụn nước (triệu chứng giống bệnh vảy nến thể mủ) xuất hiện ở lòng bàn tay, lòng bàn chân, da đầu, da bìu,… sau đó tăng sừng hóa da, tạo thành vảy.
Bên cạnh vấn đề viêm khớp phản ứng có nguy hiểm không, dưới đây là những biện pháp bạn cần lưu ý để giảm nguy cơ mắc bệnh và hạn chế những biến chứng do bệnh gây ra.
Hạn chế nguy cơ lây nhiễm các loại vi khuẩn lây qua đường tiêu hóa để phòng ngừa tình trạng viêm khớp phản ứng bằng cách đảm bảo an toàn vệ sinh thực phẩm, ăn chín uống sôi, bảo quản thực phẩm ở điều kiện phù hợp, vệ sinh thực phẩm cẩn thận trước khi chế biến.
Bên cạnh đó, bạn cần hạn chế nguy cơ mắc phải các vi khuẩn lây qua đường tình dục bằng cách sử dụng bao cao su, duy trì đời sống tình dục chung thủy một vợ một chồng, tránh quan hệ tình dục với nhiều người,…
Duy trì những thói quen dưới đây để tăng cường miễn dịch và bảo vệ sức khỏe xương khớp, cải thiện các triệu chứng viêm khớp phản ứng:
Rửa tay cẩn thận để hạn chế nguy cơ nhiễm vi khuẩn gây bệnh
Tập thể dục với cường độ phù hợp là phương pháp hiệu quả để nâng cao sức khỏe xương khớp, hạn chế các cơn đau và tăng cường lưu thông máu để vận chuyển các dưỡng chất và oxy đến nuôi dưỡng khớp bị tổn thương. Ngoài ra, thường xuyên vận động còn mang đến lợi ích đối với hệ miễn dịch, giúp cải thiện tâm trạng và tăng cường hiệu quả bài tiết độc tố trong cơ thể.
Nếu phát hiện các triệu chứng bất thường đối với xương khớp hoặc hệ tiêu hóa, bài tiết, cơ quan sinh dục,… hãy đến ngay cơ sở y tế gần nhất để thăm khám. Bạn cũng cần kiểm tra sức khỏe định kỳ 6 tháng/lần để phát hiện sớm nguy cơ mắc bệnh và có biện pháp điều trị kịp thời.
Viêm khớp phản ứng có nguy hiểm không? Các triệu chứng bệnh có thể được cải thiện nếu người bệnh tuân thủ theo chỉ định của bác sĩ trong quá trình điều trị. Hãy chủ động thực hiện những thói quen lành mạnh để ngăn ngừa các bệnh lý về xương khớp và tăng sức đề kháng, hạn chế những biến chứng của viêm khớp phản ứng.
Những thông tin, bài viết trên website Jex.com.vn chỉ dành cho mục đích tham khảo, tra cứu thông tin. Không thay thế cho việc chẩn đoán, khám và điều trị y khoa. Do đó JEX không chịu trách nhiệm về những trường hợp tự ý áp dụng mà không có chỉ định của bác sĩ